Nhiễm virus viêm gan B khi nào cần dùng thuốc
Viêm gan B là một căn bệnh nguy hiểm và có nguy cơ lây lan nhanh. Do đó, khi phát hiện được bệnh, một biện pháp chữa trị nhanh chóng được thực hiện là sử dụng thuốc kháng vi rút. Tuy nhiên hiện nay, có nhiều trường hợp khi sử dụng thuốc cho thấy dấu hiệu kháng thuốc. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cần phải có sự nghiên cứu, thay đổi trong quá trình điều trị và sử dụng thuốc.
Khi bị viêm gan B, các bệnh nhân thường lo lắng về tình trạng bệnh và băn khoăn không biết nên dùng loại thuốc nào và thường chưa biết về việc điều trị có nên dùng thuốc hay không. Hiện nay có nhiều loại thuốc dùng cho việc điều trị bệnh viêm gan B nhưng đều chưa cho hiệu quả triệt để. Việc người dùng chưa tìm hiểu kỹ và được tư vấn đầy đủ về tình trạng bệnh của mình phù hợp với loại thuốc nào đã tự ý sử dụng thuốc gây nên tình trạng kháng thuốc. Do đó, người bệnh vần thiết nên tìm hiểu khi nào bệnh cần dùng thuốc chữa trị và nên dùng như thế nào.
Bệnh nhân viêm gan B khi nào cần dùng thuốc?
Viêm gan B được phân ra thành 4 trường hợp như sau:
– Trường hợp 1: Có kháng nguyên bề mặt HBsAg (+) chứng tỏ có virut; có kháng nguyên nội sinh HBeAg (+) chứng tỏ virut đang sinh sôi, có dấu hiệu lâm sàng viêm gan B rõ (vàng mắt, vàng da, mệt mỏi chán ăn; enzym gan ALT-alanin aminotranferase tăng. Bình thường ALT= 40U/L, khi bị bệnh ALT tăng gấp 2 lần trở lên). Đây là trường hợp cần phải dùng thuốc.
– Trường hợp 2: HBsAg (+) chứng tỏ có virut; HBeAg(-) chứng tỏ không có dấu hiệu virut sinh sôi; không có dấu hiệu lâm sàng rõ. Đây là trường hợp người lành mang mầm bệnh, không dùng thuốc.
– Trường hợp 3: HBsAg (+) chứng tỏ có virut; HBeAg(+) chứng tỏ virut đang sinh sôi, nhưng không có dấu hiệu lâm sàng. Đây là trường hợp người “dung nạp được miễn dịch” cũng chưa cần dùng thuốc. Nhưng trường hợp này có nguy cơ cao, virut có thể tái kích hoạt gây bệnh nên cần theo dõi, nếu thấy xuất hiện các biểu hiện lâm sàng thì khám ngay để kịp thời dùng thuốc.
– Trường hợp 4: HBsAg (+) chứng tỏ có virut; HBeAg (-) chứng tỏ không có dấu hiệu virut sinh sôi nhưng lại có dấu hiệu lâm sàng. Đây là trường hợp người bệnh đã từng bị viêm gan B mạn, virut từng kích hoạt âm thầm, sau đó ngừng kích hoạt gọi là người viêm gan B không hoạt tính; chưa cần dùng thuốc (vì virut chưa tái sinh sôi, chưa thực sự tái kích hoạt, dùng sẽ không có lợi). Tuy nhiên phải theo dõi chặt chẽ: khám lâm sàng, xét nghiệm định kỳ, khi cần thiết phải can thiệp ngay.
Các trường hợp nên và không nên dùng thuốc chữa bệnh viêm gan B phải được sự đánh giá và chỉ định của bác sĩ. Do đó, tất cả các bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B không nên tự ý sử dụng thuốc chữa tị bệnh. Các biểu hiện của bệnh cho thấy có nên hay không sử dụng thuốc hoàn toàn nằm trong kiến thức chuyên ngành. Vì vậy, người bệnh cần thiết hỏi ý kiến bác sĩ.
Khi nào ngừng dùng thuốc?
Viêm gan B nếu chuyển sang giai đoạn mãn tính thường có nguy cơ xơ gan, ung thư gan rất cao. Nồng độ ALT càng cao thì nguy cơ xơ gan, ung thư gan cũng càng lớn. Vì thế, khi điều trị viêm gan siêu vi B mạn, cần đưa HVNDNA về dưới ngưỡng và đưa ALT về mức bình thường mới ngừng thuốc. Sau khi ngưng thuốc, cần theo dõi định kỳ, kể cả người bệnh mà khi ngừng điều trị HBVDNA ở ngưỡng thấp.
Chỉ dùng thuốc khi hội đủ các tiêu chí (trường hợp 1) và ngừng điều trị khi đạt mục đích điều trị. Ở các bệnh viện tuyến trên, thường xét nghiệm HBVDNA. Đây là chỉ số cho biết tình trạng sinh sản (nhân đôi tế bào) của virut. HBVDNA (+) chứng tỏ virut đang sinh sôi (khi điều trị HBVDNA thường giảm, lý tưởng là đạt đến mức không còn HBVDNA, nhưng trong thực tế chỉ có thể đạt được mức tối đa, tức là vẫn có thể còn HBVDNA nhưng không còn phát hiện được bằng các phương pháp thông thường). Có lúc HBVDNA chỉ giảm đến một mức nhất định. Ví dụ lúc đầu, HBVDNA = 200.000 bản sao/1ml máu, sau điều trị chỉ còn 300 bản sao/1ml máu thì coi như bệnh đã ổn định, có thể ngừng thuốc.
Hiện có xuất hiện sự kháng thuốc, đặc biệt xuất hiện các chủng kháng thuốc đột biến gen. Khi đã điều trị đủ liệu trình, đạt kết quả, cho ngừng thuốc thì vẫn theo dõi định kỳ để xử lý việc bùng phát virut. Khi bị kháng thuốc, cần chấp nhận một liệu trình khác, không bi quan bỏ mặc vì có thể bột phát nguy hiểm. Không tự ý dùng thuốc cũng như tự ý bỏ dở điều trị, tự ý kéo dài thời gian điều trị. Trong quá trình điều trị, cần khám và xét nghiệm định kỳ. Trong trường hợp không hoặc chưa dùng thuốc (trường hợp 2- 3- 4) thì cần hiểu rõ lời dặn thầy thuốc, tự theo dõi chặt chẽ, khi cần phải khám, xét nghiệm ngay (trường hợp 3- 4).
Hiện có nhiều loại thuốc được đánh giá là có hiệu năng, nhưng khác nhau về mức đạt được hiệu quả, sự kháng thuốc, thời gian điều trị, giá cả. Khi thảo luận, người bệnh cần nghe đủ các thông tin, trình bày nguyện vọng để thầy thuốc căn cứ vào đó và tình trạng bệnh mà chọn liệu trình thích hợp.
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!